Nửa đầu năm 2024, số lượng cảnh báo tồn dư chất cấm, kháng sinh trong sản phẩm nông sản xuất DNTH: khẩu sang EU tăng hơn 80%. Một câu hỏi lớn đặt ra cho ngành hàng là làm sao khắc phục tình trạng nông sản bị cảnh báo ở nước ngoài và nâng cao uy tín nông sản Việt?
Số lượng cảnh báo gia tăng bất thường
Thống kê của Văn phòng Thông báo và Điểm hỏi đáp quốc gia về Vệ sinh Dịch tễ và Kiểm dịch Động thực vật Việt Nam (SPS Việt Nam) cho thấy, trong 6 tháng đầu năm, Việt Nam đã ghi nhận sự gia tăng bất thường về số lượng cảnh báo vi phạm an toàn thực phẩm từ thị trường EU, với tổng cộng 57 cảnh báo, tăng hơn 80% so với cùng kỳ năm ngoái.
Sự gia tăng này dẫn đến việc EU tăng cường tần suất kiểm tra biên giới đối với nông sản xuất khẩu từ Việt Nam. Hiện tại, 4 mặt hàng nông sản phải chịu sự kiểm soát nghiêm ngặt hơn, bao gồm thanh long (30%), ớt (50%), đậu bắp (50%) và sầu riêng (10%).
Nói về nguyên nhân số lượng cảnh báo gia tăng bất thường, TS Ngô Xuân Nam – Phó Giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam cho hay, một trong những nguyên nhân làm tăng mức độ cảnh báo nông sản Việt Nam nhập khẩu vào EU là do nhiều doanh nghiệp xuất khẩu chưa thực sự tuân thủ các quy định của nhà nhập khẩu. Vì quy định mức dư lượng tối đa (MRL) đối với mỗi hoạt chất của mỗi nước là khác nhau, doanh nghiệp cần có sự nghiên cứu chuyên sâu và am hiểu khoa học, kỹ thuật.
Ngoài ra, theo thói quen từ trước, người sản xuất ở một số nơi còn chưa có biện pháp, kế hoạch sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, thuốc kháng sinh, phân bón không đúng hướng dẫn. Ví dụ, ở Thừa Thiên Huế năm 2020, 95% hộ nuôi tôm sử dụng kháng sinh.
Từ vùng trồng, hiện tượng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, phân bón không đúng quy định, vượt mức dư lượng thuốc bảo vệ thực vật cho phép; kiểm soát sinh vật gây hại, các nguồn tác động còn chưa chặt chẽ; chưa tuân thủ các quy định của nhà nhập khẩu vì mức MRL đối với mỗi hoạt chất của mỗi nước là khác nhau.
Từ vùng nuôi thủy sản, còn hiện tượng lạm dụng kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản do người nuôi tự ý sử dụng kháng sinh, sử dụng không đúng liều lượng và thiếu hiểu biết về vi khuẩn gây bệnh. Môi trường nuôi cũng bị ô nhiễm bởi các nguồn như thuốc bảo vệ thực vật và phân bón hóa học.
Trách nhiệm kiểm tra, giám sát cũng là một lý do khiến số lượng cảnh báo tăng. Pháp luật Việt Nam cũng chưa có quy định và chế tài đủ mạnh để xử lý các trường hợp vi phạm về an toàn thực phẩm. Tỷ lệ giám sát mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói chưa đạt. Ví dụ sầu riêng chỉ giám sát 52% vùng trồng và 47% cơ sở đóng gói.
Bên cạnh đó, quy trình đóng gói, sơ chế, chế biến và kiểm tra nguyên liệu đầu vào cần tuân thủ quy trình HACCP và tuân thủ các biện pháp SPS về phụ gia thực phẩm, an toàn thực phẩm đối với bao bì sản phẩm.
Theo ông Đặng Phúc Nguyên – Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam (Vinafruit), dù xuất khẩu rau quả của Việt Nam đạt kỷ lục trong nửa đầu năm nhưng số lượng cảnh báo gia tăng là hồi chuông cảnh báo về việc tuân thủ các quy định an toàn thực phẩm của nông sản Việt.
“Mỗi năm EU chi khoảng 35 tỷ Euro nhập khẩu rau quả, là thị trường tiêu thụ rau quả lớn nhất trên thế giới hiện nay. Thời gian qua, xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang EU tăng đáng kể, song hiện chỉ đứng thứ 27 trong số các nước xuất khẩu rau quả vào EU với thị phần khiêm tốn 1%”, ông Nguyên thông tin thêm.
Điều đáng nói, nhiều sản phẩm nông sản Việt Nam xuất sang EU thiếu tính đồng nhất. Tình trạng không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, tồn dư thuốc bảo vệ thực vật, hàm lượng kim loại nặng… vẫn còn là nút thắt lớn. Một số mặt hàng rau quả của Việt Nam xuất khẩu vào EU như: Ớt, rau húng, quế, thanh long… đã bị cảnh báo nhiều lần về về mặt chất lượng.
“Nếu tình trạng này vẫn tiếp diễn có thể làm giảm uy tín chung của nông sản Việt Nam tại thị trường EU, cũng như trên thế giới”, ông Nguyên nói.
Giải pháp nào để khắc phục?
Nói về giải pháp hạn chế tình trạng nông sản sang thị trường EU bị cảnh báo, bà Hoàng Thị Liên, Chủ tịch Hiệp hội Hồ tiêu và Cây gia vị Việt Nam chia sẻ, đối với ngành gia vị, có 3 vấn đề các doanh nghiệp đang gặp phải khi xuất khẩu sang thị trường châu Âu gồm: chỉ số dư lượng thuốc, vi sinh vật, kim loại nặng.
Theo bà Liên, bên cạnh việc theo dõi, cập nhật thông tin trên các website của cơ quan quản lý dữ liệu Nhà nước cũng cần quan tâm đến thông tin từ SPS của EU để cập nhật thông tin về mọi mặt hàng. Từ đó, doanh nghiệp có thể tham khảo các lô hàng có cùng lợi thế cạnh tranh từ các nước bị cảnh báo để rút kinh nghiệm.
Bà Liên đề xuất cần có sự phối hợp hiệu quả hơn giữa cơ quan quản lý đầu mối, doanh nghiệp, hiệp hội để xử lý các vấn đề như lô hàng bị trả lại, khó khăn của doanh nghiệp liên quan đến SPS….
Về phía mình, TS Ngô Xuân Nam cho rằng trước mắt, từng lô hàng bị cảnh báo cần truy xuất nguồn gốc, điều tra nguyên nhân và có biện pháp khắc phục để tránh lặp lại vi phạm. SPS Việt Nam đã phối hợp với các cơ quan của Bộ NN-PTNT, Bộ Công Thương, Bộ Khoa học và Công nghệ tăng cường cập nhật, phổ biến những quy định về SPS (vệ sinh an toàn thực phẩm, kiểm dịch động thực vật) đến cộng đồng trong chuỗi sản xuất, chế biến nông sản, thực phẩm.
Về biện pháp lâu dài, mới đây, ngày 19-6, Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang đã ký Quyết định 534/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Nâng cao hiệu quả thực thi Hiệp định về áp dụng các biện pháp SPS của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và cam kết SPS trong khuôn khổ Hiệp định Thương mại tự do”.
Đề án này định hướng mục tiêu đến năm 2030, tỉ lệ tiêu chuẩn quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng an toàn thực phẩm nông, lâm, thủy sản tương đương quy chuẩn quốc tế đạt 100%. Bên cạnh đó, đẩy mạnh cơ sở dữ liệu kết nối thông tin tương tác giữa hợp tác xã, DN, hội, hiệp hội với cơ quan quản lý ở địa phương và hệ thống SPS của Việt Nam; 100% cán bộ quản lý SPS các cấp được bồi dưỡng, cập nhật kiến thức chuyên môn nghiệp vụ hằng năm.
Ông Lê Thanh Hòa – Giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam đề xuất các hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp xuất khẩu quan tâm, tìm hiểu thông tin liên quan đến các vấn đề SPS, đồng thời kịp thời phản ánh những vướng mắc, khó khăn tới cơ quan quản lý.
“Văn phòng SPS Việt Nam cam kết hỗ trợ vấn đề thông tin về kiểm dịch, an toàn thực vật, giúp doanh nghiệp đáp ứng một cách tốt nhất các quy định trong các FTA thế hệ mới, trong đó có RCEP và EVFTA”, ông Lê Thanh Hòa khẳng định.