Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, lũy kế từ đầu năm đến ngày 15/7, Việt Nam xuất khẩu 68.736 tấn chè, đạt 118,1 triệu USD, tăng 31% so với cùng kỳ năm trước (YoY).
Giá chè xuất khẩu bình quân đạt 1.718 USD/tấn, tăng 1,2% YoY, góp phần đưa kim ngạch xuất khẩu chè lũy kế đến 15/7 đạt 118,1 triệu USD, tăng 31% so với cùng kỳ năm trước (YoY).
Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, nửa đầu năm 2024, Việt Nam xuất khẩu chè sang 18 thị trường. Pakistan là thị trường xuất khẩu lớn nhất với 16.072 tấn, tuy nhiên so với cùng kỳ năm trước lại ghi nhận giảm 13% về lượng. Đây cũng là thị trường duy nhất đạt lượng xuất khẩu trên 10.000 tấn chè, theo Petrotime.
Đài Loan (Trung Quốc) là thị trường xuất khẩu chè lớn thứ hai với 6.762 tấn, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước. Trung Quốc là thị trường lớn thứ ba với 6.304 tấn, tăng tới 207% YoY về lượng.
Lượng xuất khẩu chè sang các thị trường trong nửa đầu năm 2024
Các thị trường lớn khác còn bao gồm Mỹ với 4.053 tấn, tăng 62% YoY; Indonesia với 4.831 tấn, tăng 69% YoY…
Trong khối ASEAN, ngoài Indonesia, Việt Nam còn xuất khẩu chè sang Malaysia với 2.862 tấn, tăng 35% YoY; Philippines với 362 tấn, giảm 26% YoY.
Kim ngạch xuất khẩu chè sang các thị trường trong nửa đầu năm 2024
Về kim ngạch, giá trị xuất khẩu chè sang Pakistan có mức cao nhất với 33,6 triệu USD, giảm 3% YoY; tiếp đến là Đài Loan (Trung Quốc) với 11,3 triệu USD, tăng 14% YoY.
Ở mức dưới 10 triệu USD, chè xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 9,3 triệu USD, tăng tới 86% YoY; Nga với 5,8 triệu USD, giảm 3% YoY; Mỹ với 5,7 triệu USD, tăng 83% YoY; Indonesia với 5 triệu USD, tăng 86% YoY…
Giá xuất khẩu chè trung bình sang các thị trường trong nửa đầu năm 2024
Trong khối ASEAN, Việt Nam xuất khẩu chè sang Malaysia thu về 2 triệu USD, tăng 44% YoY; Philippines với 0,9 triệu USD, giảm 25% YoY.
Về giá, Đức là thị trường có giá xuất khẩu chè bình quân cao nhất với 5.360 USD/tấn, tiếp đến là Philippines với 2.651 USD/tấn, Arab Saudi với 2.608 USD/tấn, theo Mekongasean.